Sự thay đổi về VLXD ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 (P3)

24/09/2021
2474Lượt xem
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo điều kiện cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng nói riêng nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và mở ra nhiều cơ hội đổi mới và phát triển.
>> Sự thay đổi về VLXD ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 (P2)

>> Sự thay đổi về VLXD ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 (P1)

3. Dự báo sự thay đổi về vật liệu xây dựng ở Việt Nam

3.1. Thị trường trong nước

Trong giai đoạn tới, nhu cầu về các chủng loại vật liệu xây dựng sẽ tiếp tục tăng đối với thị trường trong nước. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ của từng chủng loại vật liệu xây dựng sẽ khác nhau do có sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Vì vậy, ngành vật liệu xây dựng sẽ phải tập trung hơn nữa vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản, tiết kiệm nguyên nhiên liệu, năng lượng và bảo vệ môi trường hơn là chỉ tập trung vào tăng quy mô công suất như các năm trước đây.

Tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước sẽ ngày càng tăng lên để đáp ứng toàn diện với các định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, đến năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đảm bảo kinh tế phát triển nhanh, bền vững và mở cửa, hội nhập mạnh mẽ với kinh tế khu vực và Thế giới. Phát triển công nghiệp, phát triển đô thị gắn liền với xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, đô thị và nhà ở ngày càng được đẩy mạnh bao gồm hệ thống đường cao tốc, cầu đường quốc lộ, cầu đường trong đô thị, hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị, hệ thống cảng hàng không, đường thủy, bến bãi…, các công trình nhiệt điện, thủy lợi (đập, đê, kè, cống nổi, cống ngầm, hệ thống kênh mương nội đồng…), các công trình xây dựng đô thị, nhà cao tầng, chung cư, văn phòng, khách sạn, khu du lịch… cộng với nhu cầu hàng ngày về xây nhà ở mới và cải tạo nhà ở cũ của người dân.

Một số yếu tố tác động đến tính cạnh tranh thị trường trong nước đối với các sản phẩm vật liệu xây dựng phải kể đến là đặc điểm địa lý, địa hình nước ta nằm trải dài ven biển nên mặc dù diện tích không lớn nhưng cự ly vận tải lại khá dài; sự phân bố nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng không đều theo chiều dài đất nước mà tập trung chủ yếu ở một số vùng, miền (ví dụ: nguyên liệu sản xuất xi măng chủ yếu ở miền Bắc, gạch ốp lát tập trung chủ yếu ở miền Bắc và Đông Nam Bộ, đá ốp lát tập trung ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung,…); vận tải giữa các miền, các vùng khó khăn do địa hình phức tạp, mưa bão nhiều, hạ tầng giao thông nhiều khu vực vẫn còn yếu. Dân cư nước ta sống rải rác nên mạng lưới tiêu thụ trải rộng. Trong những năm gần đây, số người dân chuyển dịch ra sống và làm việc tại các đô thị tương đối lớn, bình quân khoảng 900.000 người/năm, tỷ lệ đô thị hóa hàng năm tăng khoảng 1%. Số lượng các công trình dân dụng và công trình nhỏ nhiều nên số lượng các hộ tiêu thụ lớn không nhiều nhưng tổng lượng tiêu thụ vẫn là khá lớn. Vẫn còn hiện tượng tiêu thụ theo thị hiếu tiêu dùng bị ảnh hưởng của thói quen truyền thống là coi trọng danh tiếng hàng hóa hơn các thông số kỹ thuật của sản phẩm.

Việt Nam đã gia nhập WTO, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do nên trong giai đoạn tới, với nguyên tắc không phân biệt đối xử và cạnh tranh công bằng, thị trường mở cửa với mức thuế quan ưu đãi và điều kiện thương mại thuận lợi sẽ tạo ra cơ hội lớn cho việc xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, các sản phẩm vật liệu xây dựng trong nước cũng phải chịu những thách thức lớn từ những nguyên tắc trên.

Các lĩnh vực xi măng, cát, đá, bê tông, vật liệu xây không gặp phải vấn đề cạnh tranh với hàng nhập khẩu, tuy nhiên sẽ phải cạnh tranh giữa các nhà sản xuất và cung cấp trong nước với nhau do tiêu thụ các chủng loại vật liệu xây dựng này trong nước là có hạn, trong khi sản lượng của chúng sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Thực tế cho thấy năm 2018, hơn 30% sản lượng xi măng nước ta đã xuất khẩu và nếu sản lượng xuất khẩu xi măng trong các năm tới bị sụt giảm thì chắc chắn tính cạnh tranh tại thị trường trong nước sẽ khốc liệt hơn rất nhiều. Vật liệu cát xây dựng cũng sẽ ngày càng chịu sự cạnh tranh và dễ bị đẩy giá lên cao do trữ lượng cát thiên nhiên nước ta có hạn, trong khi các loại cát nghiền, cát tái chế vẫn chưa được thị trường chấp nhận rộng rãi.
 
 
Lĩnh vực gạch ốp lát cạnh tranh hết sức sôi động trên thị trường trong những năm gần đây đặc biệt là giai đoạn 2014 - 2017 giai đoạn bất động sản phục hồi. Tuy nhiên, trong hai năm 2018 - 2019 việc tiêu thụ gạch ốp lát trong nước cũng chững lại đã gây khó khăn cho nhiều cơ sở sản xuất. Nguyên nhân chính đã gây nên tình trạng này do sự phát triển quá nhanh của các cơ sở sản xuất đã dẫn tới năng lực sản xuất vượt xa so với nhu cầu, đồng thời với những động thái hạn chế bong bóng bất động sản, lĩnh vực xây dựng nhà để ở và nhà không để ở sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2019, do đó, triển vọng tiêu thụ gạch ốp lát dự báo chậm lại trong năm 2019 tiếp tục sẽ khiến giá bán sản phẩm ốp lát giảm. Mức giảm mạnh sẽ ở mảng ceramic và thấp hơn đối với cotto và porcelain do xu hướng tiêu dùng. Trong giai đoạn tiếp theo, việc thay đổi thói quen sử dụng từ gạch ốp lát sang sử dụng các loại vật liệu mới trong ốp lát như sàn gỗ, sàn nhựa giả gỗ cũng sẽ là yếu tố làm giảm khả năng tiêu thụ gạch ốp lát trong nước.

Lĩnh vực đá ốp lát tự nhiên và đá ốp lát nhân tạo hiện cũng là những sản phẩm có xu hướng được sử dụng ưa chuộng trong các công trình xây dựng. Đá ốp lát tự nhiên trong nước thường được sử dụng trong các công trình xây dựng nhỏ hoặc nhà ở vì khả năng đáp ứng một khối lượng lớn đá ốp lát có cùng màu sắc, cùng đặc điểm trang trí là rất khó. Hiện nay, hầu hết các công trình xây dựng lớn đều nhập đá ốp lát của nước ngoài.

Thị trường vật liệu ốp lát ngày càng phát triển mạnh cả về quy mô lẫn số lượng, chất lượng nên việc cạnh tranh kinh doanh ngày càng khó khăn, quyết liệt. Sự cạnh tranh được thể hiện không chỉ giữa hàng trong nước với nước ngoài mà còn cả ở hàng trong nước với nhau. Việc cạnh tranh giữa hàng trong nước và nước ngoài ở các sản phẩm gạch kích cỡ trung bình không phải cao cấp trước đây rất thấp vì hầu như các sản phẩm nhập khẩu không có chỗ đứng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc cạnh tranh của những dòng sản phẩm này lại rất cao, do sản phẩm nhập khẩu thường có mẫu mã đẹp hơn, giá thành rẻ hơn sản phẩm sản xuất trong nước. Vì vậy, có thể nói, cạnh tranh trên thị trường trong giai đoạn tới ngày càng gay gắt hơn, đặc biệt là đối với các sản phẩm có công suất vượt nhu cầu như: gạch gốm ốp lát, sứ vệ sinh.

Thị trường sứ vệ sinh trong nước ở giai đoạn vừa qua cũng khá sôi động, mức độ tiêu thụ liên tục tăng đặc biệt là các thương hiệu nổi tiếng như TOTO, Inax, Ceasar... các sản phẩm sứ vệ sinh của nước ta không chỉ phổ biến ở thị trường trong nước mà còn được ưa chuộng ở các nước trên thế giới và khu vực. Tuy nhiên, hiện nay cũng có nhiều cơ sở sản xuất sứ vệ sinh trong nước gặp nhiều khó khăn về tiêu thụ, chỉ hoạt động cầm chừng. Đây chủ yếu là các cơ sở nhỏ sản xuất các sản phẩm bình dân do phải chịu thách thức lớn từ các sản phẩm nhập khẩu khi nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, tầng lớp trung lưu nổi lên nhanh chóng và tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng sẽ khiến cho thị trường sứ vệ sinh chất lượng cao trong nước trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng.

Lĩnh vực kính xây dựng cũng có khả năng cạnh tranh cao khi mà tổng công suất thiết kế và sản lượng của các nhà máy kính đã dư so với nhu cầu trong nước, đồng thời, các nhà máy sản xuất kính rất lớn của các nước ASEAN có khả năng tràn vào thị trường trong nước theo các quy định thực thi các hiệp định thương mại tự do. Tính riêng một nhà máy kính của Malaysia có chủ sở hữu của Trung Quốc đã có công suất lên đến khoảng 400 triệu m2/năm, hơn cả tổng công suất thiết kế của toàn bộ các nhà máy sản xuất kính của nước ta.
(Còn nữa)
 
(PGS.TS. Lê Trung Thành - Trường ĐH KTQD; ThS. Lê Đức Thịnh - Viện VLXD)