Ứng dụng học của bê tông tái chế sử dụng xi măng và chất kết dính (P1)

13/09/2021
931Lượt xem
Bê tông sử dụng chế độ tái sinh cốt lõi (BTCLTC) và được nhiều người tìm kiếm quan tâm về vật liệu đặc tính. Tuy nhiên, rất ít người nghiên cứu về các đặc tính của BTCLTC trên bê tông kết cấu. Bài trình bày kết quả đầu ra về nền tảng xử lý của tông màu và kết cấu bê tông cốt lõi sử dụng nguyên liệu tái chế kết hợp với chất lượng kết nối xi măng hoặc chất kết dính bao gồm hoạt động hóa. Các cơ sở học đặc trưng như cường độ chịu đựng, cường độ chịu lực và hồi phục mô-đun của BTCLTC mẫu đã được nghiên cứu và so sánh với cơ chế xử lý của bê tông sử dụng tự nhiên có cường độ chịu nén 30 MPa.
Kết quả thử nghiệm cho thấy BTCLTC sử dụng chất kết dính két có tính chất cơ học và mô men chống nứt tốt hơn với BTCLTC sử dụng xi măng, nhưng số lượng vết nứt và sự phát triển vết nứt rộng not value.

1. About

Faste render bê tông màu hồng xây dựng trong môi trường bảo vệ giúp xây dựng, đồng thời sẽ giảm sử dụng thiên nhiên nguyên liệu. To let the use of effect to the bê tông, có thể sử dụng loại bỏ bê tông cốt thép (CLBTTC) trong sản xuất bê tông. Nhiều tác giả nghiên cứu trung tâm nghiên cứu từ quá trình tái chế bê tông nền và thiết kế thành phần bê tông và nghiên cứu các cơ sở tính chất, độ lâu của bê tông tái chế (BTCLTC) [1- 4]. Có thể thấy rằng, BTCLTC thường có các chất lượng cơ bản thấp hơn so với bê tông cốt tự nhiên (BTCLTN) [1-3], khả năng chịu lực của kết cấu BTCLTC cũng thấp hơn so với kết cấu BTCLTN [4 -số 8]. This is do the recovery of root is normal to create a rỗng xốp do có cũ phần bám dính, có nhiều vết nứt do quá trình gia công cốt lõi.

Trong những năm gần đây, một số khảo sát khảo sát hệ thống ứng dụng - dạng biến và ứng dụng học của hệ thống kết cấu nền sử dụng CLBTTC đã được cập nhật đề [5-7,10,11]. Ajdukiewicz và Kliszczewicz [11] đã sử dụng cốt bê tông tái chế để thay thế một phần hoặc toàn bộ tự nhiên (CLTN) trong nghiên cứu ứng dụng của bê tông 200 × 300 × 2600mm có cốt hàm 0,90% và 1,60%. Kết quả thử nghiệm BTCLTC. Kang và sự việc [6] cũng nghiên cứu bê tông có hàm lượng 0,5% và 1,8% sử dụng CLBTTC có nguồn gốc từ bê tông thường và bê tông cường độ cao để thay thế CLTN đến 50% . Kết quả nghiên cứu cho thấy BTCLTC có nhiều vết nứt và mô men nứt thấp hơn so với BTCLTN, but BTCLTC use of 30% clbTTC back to the alignment to. Knaack and Kurama [7] cũng nghiên cứu ứng dụng xử lý của bê tông tông có kích thước 150 × 230 × 2000mm, use CLBTTC 50%. Các tác giả cho các chuyển đổi của BTCLTC cao hơn các chuyển đổi của chứng chỉ, nhưng cấu hình tính toán của BTCLTN cũng phù hợp cho BTCLTC.

Gần đây, nhiều nghiên cứu có xu hướng sử dụng chất lượng kết nối không xi măng trong chế độ bê tông làm loại chất kết dính có cường độ và độ cao, đồng thời giảm thiểu môi trường hoạt động do quá trình sản xuất xi măng poóc lăng [12-15]. Đây là loại chất kết dính là hợp nhất của các công trình đào thải (tro bay nhiệt, lò cao hạt hóa) hoặc puzơlan vật liệu (đất puzơlan, mê ta cao lanh) được hoạt động bằng các chất kiềm [13,14 , 16]. Collins [12] cho rằng BTCLTC mạnh mẽ chịu đựng và cường độ chịu lực của BTCLTC để sử dụng chất kết dính bù lại hoạt động có thể bằng hoặc cao hơn so với BTCLTC sử dụng xi măng. This can may be the body in the CLBTTC is available in the quality kiềm Ca (OH) 2 là sản phẩm thủy tinh hóa của xi măng, cho nên hiệu ứng hoạt động và hiệu ứng puzơlanic của Xỉ lò cao nghiền (XLCNM) có thể sẽ tăng sức mạnh. Hơn nữa, CLBTTC còn có một phần clanhke xi măng chưa được thủy hóa sẽ tiếp tục thủy hóa trong BTCLTC hợp nhất và sẽ góp phần làm tăng cường độ và độ dài của bê tông. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chủ yếu được phân tích trên các thí nghiệm nhỏ, không có nhiều nghiên cứu trên các cấu trúc chịu lực. To expand the use of the end of the use of the render in mode to create the end of the gúp chịu lực, bài viết này trình bày các kết quả nghiên cứu để so sánh ảnh hưởng của công việc sử dụng chất kết nối với nhau để kiềm hóa hoạt động thay thế thế chất kết nối xi măng đến cơ sở học tập đặc trưng của bê tông mẫu, cũng như sự uốn nắn của cốt thép BTCLTC.

2. Nghiên cứu dữ liệu và phương pháp

2.1 Vật liệu sử dụng

Xi măng PC40 Bút Sơn được sử dụng trong nghiên cứu này, các cơ bản tính chất của xi măng thỏa mãn TCVN 2682: 2009. Xỉ lò cao hạt nghiền (XLCNM) được nghiền từ lò cao của nhà máy tập đoàn Hòa Phát, theo TCVN 4315: 2007 thì loại lò cao đạt yêu cầu để sản xuất măng.

CLTN sử dụng bao gồm đá  D max = 20mm và cát vàng Sông Lô được sử dụng chế tạo bê tông đối chứng. CLBTTC được gia công từ giấy bê tông xi măng. Các tính chất của cốt liệu thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật của tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7570: 2006. Hoạt động nước sinh ra được sử dụng cho bê tông và thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật của nước kết hợp trong bê tông theo TCVN 4506: 2012. Dung dịch kiềm chế của dung dịch thủy tinh (Na-Si) has Na

2 O = 11,8%; SiO 2  = 28,0%; H 2 O = 58,2% và dung dịch NaOH 32% (chứa 32% NaOH rắn). This service is used to be used to the activeization in the counterpation chất kết dính để thay thế chất kết dính xi măng.

2.2 Bê tông cấp phần
 

Có hai cấp độ bê tông sử dụng CLTN có chứng chỉ 10 ± 2cm là: ĐCI có cường độ chịu nén tiêu chuẩn quy đổi đạt mác M300 (cấp độ B22,5) và ĐCII đạt mác M250 (cấp độ B20 ). ĐCII có nhãn tương đương với nhãn của bê tông sử dụng 100% CLBTTC thay thế CLTN (BTCLTC). Theo các nghiên cứu trước đây [17,18] bê tông sử dụng chất kết dính sóng kiềm (CKDXK) với hàm lượng kiềm sử dụng là 7% và mô đun là 1,0% thay thế hoàn toàn xi măng ( BTCLTC-XK 7%) co the tăng cường chất lượng của BTCLTC. Thiết kế cơ sở dữ liệu thành phần phân phối theo nguyên tắc có thể tích hợp tuyệt đối, lượng sử dụng vật liệu của các nghiên cứu khoa học hợp tác được nêu ra ở bảng 1.

2.3 Nghiên cứu phương pháp nghiên cứu

Bê tông bê tông được chuyển theo trình kết hợp hai giai đoạn [19]. Giai đoạn 1 làm ẩm cốt trong khoảng 5 phút, sau đó giai đoạn 2 là cho chất kết nối vào liên kết để tăng khả năng hấp thụ và kết nối bề mặt khung. Các mẫu được tạo và bảo dưỡng tại phòng thí nghiệm theo TCVN 3105: 1993 đến tuổi 28 ngày.


Để đánh giá hiệu quả cải thiện chất lượng kết nối BTCLTC, cơ chế xử lý của BTCLTC và BTCLTC-XK7% is so sánh với cả hai nền tảng tông màu (ĐCI, ĐCII). Các cơ sở học tập được đánh giá thông qua cường độ chịu nén theo TCVN 3118: 1993, cường độ chịu lực và hồi phục mô-đun theo TCVN 3119: 1993 và tiêu chuẩn ASTM C469: 2002. Ứng dụng của bê tông được xử lý theo hệ thống bê tông cốt thép chịu lực chịu đựng với sơ đồ chịu tải như Hình 1. Toàn bộ chuyển đổi và xuất hiện dạng biến đổi trong quá trình chịu tải trọng, được tự động ghi lại bằng bộ thu TDS-530 thông qua 3 đầu đo chuyển đổi (LVDT) I1, I2, I3 và 2 biến điện trở biến dạng T1, T2. Crack width, được định nghĩa bằng thiết bị quang học DJCK-2, có độ chính xác đến 0,01mm.
(Còn lại)

Reference document

1. ACI 555 (2001), Loại bỏ và Tái sử dụng Bê tông cứng, ACI_555R-01, Viện Bê tông Hoa Kỳ, Farmington Hills. 2. Hansen TC (1992), “Phá dỡ và tái sử dụng bê tông và khối xây: tái chế bê tông đã phá hủy, tái chế gạch xây, và cắt cục bộ bằng cách nổ bê tông”, báo cáo RILEM 6, E & EN Spon, London. 3. Kiên TT, Thanh TL, Lu VP (2013), “Tái chế phế thải phá dỡ công trình xây dựng trên thế giới và Việt Nam”, Ed. Soutsos Marios và cộng sự, Hội nghị quốc tế về Môi trường được Xây dựng Bền vững cho Hiện tại và Tương lai, 26-27 tháng 3 năm 2013, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, Việt Nam, 247-256. 4. Jianzhuang X. et. al. (2012), "Tổng quan về nghiên cứu bê tông cốt liệu tái chế ở Trung Quốc (1996-2011)", Xây dựng và Vật liệu xây dựng, 31: 364-383.

5. Yagishita F., Sano M., Yamada M. (1994), “Hành vi của dầm bê tông cốt thép chứa cốt liệu thô tái chế”, Phá dỡ và tái sử dụng bê tông & quy trình xây dựng RILEM, Ed. Erik K.Lauritzen, E&FN Spon, Frederiksberg, Đan Mạch, 331-342.

6. Kang TH-K et. al. (2014), "Thử nghiệm uốn của dầm bê tông cốt thép với cốt liệu bê tông tái chế", Tạp chí kết cấu ACI, 111 (3): 607-616.

7. Knaack AM, Kurama YC (2014), "Hành vi của dầm bê tông cốt thép với cốt liệu thô bê tông tái chế", Journal Structures Engineering 2014 © ASCE 2014.

8. Kou SC (2006), Tái sử dụng cốt liệu tái chế trong kết cấu bê tông, Luận án Tiến sĩ, Trường đại học bách khoa Hồng Kông.

9. Kou SC, Poon CS, Agrela F. (2011), "So sánh bê tông cốt liệu tự nhiên và tái chế được điều chế với việc bổ sung các phụ gia khoáng khác nhau", Xi măng & Bê tông Composites, 33 (8): 788-795. 10. Mahdi A. et. al. (2015), "Nghiên cứu thực nghiệm về độ bền uốn của dầm bê tông cốt thép với 100% cốt liệu bê tông tái chế", Engineering Structures, 88: 154-162. 11. Ajdukiewicz BA, Kliszczewicz TA (2007), "Các thử nghiệm so sánh của dầm và cột làm bằng bê tông cốt liệu tái chế và bê tông cốt liệu tự nhiên", Tạp chí Advanced Concrete Technology, 5 (2): 259-273. 12. Collins F., Sanjayan J. (1999), "Tính chất cường độ và độ co ngót của bê tông xỉ kiềm hóa đặt thành cột lớn", Nghiên cứu Bê tông xi măng, 29: 659-666.
13. Garcia JIE et. al. (2009), "Xỉ lò cao thô làm vật liệu kết dính, nghiên cứu so sánh để thay thế một phần xi măng poóc lăng và làm xi măng hoạt tính kiềm", Xây dựng và Vật liệu xây dựng, 23: 2511-2517.

14. Jiménez AF, Palomo A. (2003), "Đặc điểm của tro ruồi. Khả năng phản ứng tiềm tàng như xi măng kiềm", Nhiên liệu, 82: 2259-2265.

15. Juenger MCG et. al. (2011), "Những tiến bộ trong chất kết dính gốc xi măng thay thế", Nghiên cứu Xi măng và Bê tông, 41: 1232-1243.

16. Tống Tôn Kiên, Phạm Thị Vinh Lanh và Lê Trung Thành (2014), "Bê tông Geopolymer- Những người thành công, tính chất và khả năng ứng dụng ở Việt Nam", Tạp chí Vật liệu xây dựng. (3): 62-66.

17. Tống Tôn Kiên (2015), Nghiên cứu nâng cao chất lượng bê tông sử dụng tái chế bê tông từ bê tông xi măng, Báo cáo tổng hợp đề tài KHCN cấp trường, Mã số 60-2015 / KHXD , Trường Đại học Xây dựng. 18. Tống Tôn Kiên, cs. (2014), "Nghiên cứu chế tạo khử trùng sử dụng nguyên liệu chế từ phế thải xây dựng", Tạp chí Xây dựng, Bộ Xây dựng, (6): 69-72. 19. Vivian WY Tam, XF Gao, CM Tam (2005), "Phân tích cấu trúc vi mô của bê tông cốt liệu tái chế được sản xuất từ phương pháp trộn hai giai đoạn", Nghiên cứu xi măng và bê tông. 35: 1195-1203. 20. Kou SC, Poon CS (2012), "Tăng cường tính chất bền của bê tông được chế biến từ cốt liệu tái chế thô", Xây dựng và Vật liệu xây dựng. 35: 69-76.
21. Jorge D. B, Nabajyoti S. (2012), “Cốt liệu tái chế trong bê tông: Sử dụng chất thải công nghiệp, xây dựng và phá dỡ”, Năng lượng xanh và Công nghệ, Springer London Heidelberg New York Dordrecht.

22. Choi CW, Yun HD (2013), "Độ võng và ứng xử uốn dài hạn của dầm bê tông cốt thép với cốt liệu tái chế", Vật liệu và Thiết kế, 51: 742-750.
 
VLXD.org  (TH / Tạp chí KHCNXD)